Thảo luận
Trong một ngày, mỗi một chúng ta đều trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau. Cảm xúc tích cực có và cảm xúc tiêu cực cũng có. Nhưng cảm xúc tiêu cực đa phần chiếm nhiều hơn trong đời sống chúng ta. Đôi khi chúng ta “vượt qua giới hạn” của bản thân khi bày tỏ cảm xúc. Vậy làm thế nào để kiểm soát cảm xúc của mình? Bài viết sau sẽ cho chúng ta biết cách để rèn luyện sự kiềm chế cảm xúc.
“Mẹ không thể bắt ép con phải cảm nhận điều này như thế nào,” cô bé nhỏ hét lên trong cơn giận dữ.
“Mẹ không bắt con phải cảm nhận như thế nào.” Bà mẹ cô bé vặn lại. “Mẹ muốn con biết cách để cư xử. Con đang hành xử hoàn toàn không đúng.”
Mặc dù âm thanh của cuộc hội thoại gây chú ý đến hầu hết mọi người trong cửa hàng nhưng thông điệp đó thu hút sự quan tâm của tôi. Một giả định kích thích tôi: Chúng ta không thể kiểm soát cảm xúc của người khác. Dù rõ ràng là như vậy, tôi bắt đầu nghi ngờ một giả định khác ẩn dưới: Chúng ta không thể tự kiểm soát cảm xúc của chính mình. Tôi không đủ can đảm xen vào cuộc tranh cãi giữa gấu mẹ và gấu con để hỏi, nhưng tôi nghi ngờ người mẹ tìm cách can thiệp vào hành vi của con mình vì chỉ có điều đó mới có thể bị chi phối.
Thoạt nhìn, điều này có vẻ đơn giản. Tức giận, đồng cảm, sợ hãi, vui mừng, buồn bã, lo lắng đều xảy ra với chúng ta, phải không? Chúng không tự đến như việc chảy nước mắt khi nhìn quá lâu vào mặt trời. Trước khi chúng ta dừng lại để bình tĩnh quyết định có nên nổi nóng với người đàn ông vừa cắt ngang đường, thì chúng ta đã giơ nắm đấm, nói xấu và vô cùng giận dữ. Quyết định trước tiên là nổi giận. Người khác không thể kiểm soát cảm xúc của chúng ta vì chính chúng ta không thể làm được điều đó.
Hành vi, như người mẹ nói, là một vấn đề khác. Đó là kết quả của cảm xúc đưa đến, có thể nhìn thấy và có thể kiểm soát được. Một bé gái có thể thấy vô cùng giận dữ khi mẹ không mua cho chiếc cặp Hello Kitty yêu thích và ngay lập tức lăn ra sàn vì đơn giản là không thể chịu đựng được. Nhưng cơn giận có thể chỉ lặng lẽ lan tỏa bên trong và cô bé vẫn giữ vẻ bình tĩnh bên ngoài. Trong lòng cô bé như thể đã giết chính mẹ mình.(Ma-thi-ơ 5:21-22), nhưng bên ngoài biểu hiện thờ ơ để không ai biết tội ác mình.
Liệu cảm xúc có thể được kiểm soát?
Chúng ta sống trong thế giới của biểu tượng cảm xúc, nơi tự thể hiện mình và khẩu hiệu “hãy là chính mình” được tôn cao nhất – nhưng không ai biết chúng ta đang cảm thấy như thế nào. Chúng ta nhanh chóng, thậm chí theo phản xạ, gửi đi những biểu tượng mặt cười, buồn, khóc, ngạc nhiên hoặc điên rồ qua tin nhắn hoặc bình luận.Và dù là lăn lộn trên sàn, chúng ta nên bày tỏ tất cả những cảm xúc đó, hơn là giữ chúng lại và biến thành giả tạo. Không có lựa chọn nào khác. Đời sống tình cảm tự nhiên của chúng ta có thể, và một số người khuyên là nên, bày tỏ cho tất cả mọi người – vợ, chồng, cha mẹ hoặc cả người lạ. Thậm chí, nhiều người kêu gào với Chúa khi lòng họ buồn rầu. Nói chung lại, giả định đứng vững là: bạn là cảm xúc của bạn – tốt hơn hoặc xấu hơn. Kìm nén chúng là kìm nén bản thân.
Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy.
Cùng với ý tưởng của C.S. Lewis trình bày rõ trong cuốn “The Abolition of Man”, những người như Plato, Aristotle và Augustine đều lý giải rằng những phản ứng cảm xúc của chúng ta, thay vì phản ứng cố định, chúng có thể (và phải) được rèn tập để thay đổi.Trái tim không bao giờ thay thế cho cái đầu: nhưng tình cảm có thể, và nên nghe theo lý trí. Như vạc bắt đầu ủ, cha mẹ bên trong của đứa trẻ (lương tâm của cô bé) đáng lẽ phải hướng dẫn, “Những gì mình bị cám dỗ cảm thấy ngay bây giờ là hoàn toàn vượt quá giới hạn.”
Cách nói “vượt quá giới hạn” diễn tả thước đo tuyệt vời mà người xưa thường dùng để phán xét và tái lập cảm xúc của chúng ta một cách thực tế. Với tiêu chuẩn này, cảm xúc có thể phù hợp hoặc không phù hợp, công bằng hoặc không công bằng, có lý hoặc vô lý. Do đó, cảm xúc phải được thể hiện và kìm nén tương ứng. Nỗi buồn chẳng hạn, được thể hiện một cách đúng đắn khi chúng ta buồn vì mất đi một người thân yêu. Nỗi buồn thể hiện một cách sai lầm khi bị đè nặng bởi sự đố kị, nó khiến chúng ta ngồi ủ rũ trong đám cưới của người bạn.
Những nhà giáo dục dù ở các thời đại khác nhau đều coi việc đào tạo tình cảm của học sinh như là công việc chính của họ. Trái ngược với việc chỉ đảm bảo cho những đứa trẻ biết bảng nhân và ngữ pháp tiếng Anh, nền giáo dục đã tìm cách đào tạo học sinh biết ghét những gì đáng ghét và yêu những gì đáng yêu. Họ dạy cách phân biệt cái tốt với cái xấu và sau đó phản ứng một cách thích hợp. Ngày nay, do nghi ngờ về truyền thông cảm xúc, chúng ta xa cách với điều này và sau đó tự hỏi tại sao một số người thả trôi những cảm xúc không được kiểm soát của họ. Chúng tôi đã loại bỏ những điều mà ba mẹ cô bé nói rằng cảm xúc tức giận ngang ngược của cô bé là hoàn toàn không phù hợp, bất kể cô bé nói gì hay làm gì ở ngoài trường học.
CÁCH RÈN LUYỆN CẢM XÚC
Đức Chúa Trời có mong muốn chúng ta rèn luyện cảm xúc? Câu trả lời là có. Ngài tể trị chúng.
Chúa cần sự vâng phục “từ tấm lòng” – như chiếc bình (Rô-ma 6:17) – chúng ta thường cho là không kiểm soát được.Ngài không như người mẹ kia, Ngài nói cho chúng ta biết điều gì đáng sợ và điều gì không (Lu-ca 12:4-5); điều gì phải vui mừng và điều gì không (Phi-líp 4:4); điều gì chúng ta phải ghét bỏ (Rô-ma 12:9); Ngài phán rằng chúng ta chớ lo phiền chi hết (Phi-líp 4:6); và Ngài dạy dỗ điều phải làm khi chúng ta trong cơn giận dữ (Ê-phê-sô 4:26)
Nếu chúng ta chỉ giải quyết bằng hành động, chúng ta bỏ qua vấn đề đạo đức, thì đó không phải phẩm hạnh của Cơ Đốc nhân. Biểu hiện cư xử đúng đắn bên ngoài sẽ là vô nghĩa nếu bên trong chúng ta vẫn đầy rẫy những cảm xúc dơ-dáy (Ma-thi-ơ 23:27). Đức Chúa Trời nhìn vào tấm lòng bên trong (Rô-ma 8:27).Một lúc nào đó, cô bé đang la hét đó phải được nghe Tin mừng rằng Đức Chúa Trời ban cho cô nhiều hơn sự kiềm chế, Ngài khiến sự biến đổi đến từ sâu bên trong tấm lòng. Ngài muốn những cảm xúc mới, qua Đức Thánh Linh, Ngài ban ra những điều Ngài muốn. Quả là một điều tuyệt vời: chúng ta không còn là nô lệ cho cảm xúc.
Ngài đã làm thế nào để dạy chúng ta biết yêu, biết ghét và biết cảm nhận đúng đắn với lòng tin kính? Ngài cho chúng ta ít nhất bốn sự trợ giúp:
1. CON TRAI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Nền tảng cơ bản cho tất sự sự tin kính đều nằm trong Phúc Âm. Sẽ không có sự thay đổi trong cảm xúc hay giải phóng khỏi sự gò bó nếu như chúng ta vẫn chăm chăm nhìn vào những điều tức giận,vô cảm hay ham muốn trong quá khứ. Nhưng tin tốt cho tất cả những ai đang tranh chiến với những cảm xúc sai lầm biểu hiện không phù hợp (hoặc những tình cảm đúng đắn nhưng giấu kín) đó là con người và công việc của Chúa Giê-xu Christ, Đấng cảm nhận hoàn hảo, Ngài đã trải qua những cảm xúc mà chúng ta không thể và Ngài chịu đựng cảm giác hứng chịu cơn thịnh nộ thay cho chúng ta hầu cho mỗi chúng ta được làm mới từ tận sâu bên trong của cảm xúc. Liệu có lời than khóc nào xúc động như tiếng kêu lớn rằng “Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46).
2. THÁNH LINH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Hơn thế nữa, để rèn tập cho chúng ta, Chúa ban cho Thánh Linh của Ngài.Chúng ta không cô đơn. Vượt quá cả mọi sự hiểu biết và mong đợi, chúng ta được trở nên “người dự phần bổn-tánh Đức Chúa Trời”(2 Phi-e-rơ 1:4), mọi sự đều trở nên mới, những cảm xúc hoàn toàn khác biệt so với trước đây (2 Cô-rinh-tô 5:17).Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta Đức Thánh Linh để sản sinh ra trái của cảm xúc làm đẹp lòng Ngài (Ga-la-ti 5:22-23): Lòng yêu-thương (thay cho lòng ghen ghét), sự vui-mừng (thay cho sự tuyệt vọng), bình-an (thay cho hỗn loạn), nhịn-nhục (thay cho tức giận), nhân-từ (thay cho cay nghiệt), hiền-lành (thay cho gian ác), trung-tín (thay cho dễ thay đổi), mềm-mại (thay cho khắc nghiệt), tiết-độ (thay cho cảm xúc kiểm soát). Ngài thay đổi đời sống tình cảm của chúng ta từ nơi nó xuất phát. Đó chính là tấm lòng.
3. NGƯỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Đức Chúa Trời không vây quanh chúng ta bằng những cuốn sách tự-lực, những chương trình trò chuyện buổi sáng, những người bạn học lớp yoga để giúp chúng ta cân bằng các trạng thái cảm xúc. Đức Chúa Trời đặt chúng ta giữa những người thuộc về Ngài. Đừng bao giờ quên, sự nên thánh là công cuộc của cả một cộng đồng. Người lớn hơn dẫn dắt người nhỏ hơn. Tất cả phục vụ lẫn nhau bằng những ân tứ được ban cho khác nhau. Họ cùng nghe lời Chúa. Sống cùng nhau. Và chúng ta gây dựng lẫn nhau, “lấy tình yêu thương nói ra lẽ chân-thật” (Ê-phê-sô 4:15). Những cảm xúc lành mạnh được tìm thấy trong đời sống tình cảm lành mạnh trong cộng đồng những người được chuộc mua bởi huyết báu của Chúa Giê-xu. Chúng ta cùng giúp đỡ nhau hướng lòng về Đức Chúa Trời và tỉnh thức với cảm xúc của chúng ta.
4. LỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Điều cuối cùng, Đức Chúa Trời bày tỏ thực tế thông qua Lời của Ngài để chúng ta được tin bởi đức tin vững vàng. (Hê-bơ-rơ 11:1).Sự bình-an của Đấng Christ cai trị trong lòng chúng ta khi Lời của Đức Chúa Trời ở đầy trong lòng mỗi người. (Cô-lô-se 3:15-16).Ví dụ, trong bốn câu kinh thánh sau, Phao-lô chỉ cho chúng ta một khía cạnh của một thực tế rằng, khi chúng ta tin, chúng ta sẽ được tự do khỏi mọi lo lắng và nhận được niềm vui không thể dập tắt.
Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa: hãy vui mừng đi. Hãy cho mọi người đều biết nết nhu mì của anh em. Chúa đã gần rồi. Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn và trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ gìn giữ lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ. (Phi-líp 4:4-7)
Phao-lô không chỉ nói “Hãy hát trong Chúa” hay “Hãy nhảy múa trong Chúa” hay “Hãy cười vui vẻ trong Chúa” nhưng ông nói “Hãy vui mừng trong Chúa”. Và khi nào chúng ta nên vui mừng? Luôn luôn. Khi nào chúng ta nên dừng lại? Không bao giờ. Khi nào chúng ta nên lo lắng? Không bao giờ. Tại sao vậy? Bởi vì lẽ thật của Chúa không bao giờ ngừng cho chúng ta lí do để vui mừng: Chúa đã gần rồi. Thực tế hư không của thế gian nói rằng nếu bạn đơn độc, sai trái, tù tội, hay gánh nặng, bạn có quyền cảm thấy không hạnh phúc. Nhưng Phao-lô suy nghĩ khác, bởi ông ở trong một thế giới khác.
Ông gọi sự hạnh phúc hiện ra trên khuôn mặt dù khi trải qua đau khổ là nết nhu mì: “Hãy cho mọi người biết nết nhu mì của anh em” (Phi-líp 4:5). Khi bi kịch ập đến và chúng ta có đủ lí do để thấy thất vọng với cuộc sống của chính mình, chúng ta – dù là sau đó – khiến đó là lí do để trở nên hân hoan trước sự trông xem của thế gian – “ngó như buồn-rầu, mà thường được vui-mừng” (2 Cô-rinh-tô 6:10).Chúa ở gần để nghe những lời cầu nguyện của chúng ta. Chúa ở gần để an ủi chúng ta. Không có điều cho có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi sự yêu-thương của Ngài (Rô-ma 8:27-29).Dù khi nỗi buồn cuộn trào như sóng biển khơi, chúng ta vẫn có lý do để hát lên rằng, “Dù là như vậy, điều ấy vẫn có ích cho linh hồn tôi!”. Trên cả mọi nỗi đau, ấy là Cha Thiên Thượng của chúng ta.
Thực tế này sẽ thay đổi cách chúng ta phản ứng khi không được có chiếc cặp mơ ước trong cuộc sống.
TRUẤT NGÔI VỊ THẦN CẢM XÚC
Đức Chúa Trời ban cho chúng ta điều tuyệt vời là món quà cảm xúc để tô màu cho cuộc sống. Ngài là Đức Chúa Trời của cảm xúc, và chúng ta không được dựng nên theo ảnh tưởng của những con rô-bốt. Trong khi chúng ta nghĩ cảm xúc là điều thật tuyệt vời, nhưng chúng lại là những điều thật khủng khiếp. Khi chúng đi qua, không được sự tể trị bởi Đức Thánh Linh và Lẽ thật của Đức Chúa Trời – chúng đe dọa chính chúng ta cũng như những người xung quanh.
Trong một thế giới được trao cho những cảm xúc không ràng buộc và sự thờ ơ lạnh lùng, một thế giới bị mê hoặc bởi những điều tầm thường và vô cảm về sự vĩnh hằng, chúng ta có một cơ hội tuyệt vời:cho mọi người biết nết nhu-mì của anh em. Chúng ta có thể sống vì vinh quang của Chúa như là công dân của nước Thiên Đàng, yêu những gì Ngài yêu, ghét những gì Ngài ghét, sống, cười và khóc theo cách phản chiếu Chân Lý cao nhất: Đức Chúa Trời. Ngài đã gần rồi, và Ngài gìn giữ chúng ta trong sự bình an trọn vẹn, tâm trí chúng ta không dựa vào cảm xúc, nhưng nương dựa nơi Ngài. (Ê-sai 26:3).
- Details
- Category: Thảo luận
- Hits: 3172
Lời của Đức Chúa Trời là nguồn sức mạnh tâm linh, sự khích lệ và sự khôn ngoan của một nhóm nhỏ.
Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành. 2 Ti-mô-thê 3:16-17
Nếu chúng ta đang cố gắng giảng dạy, sửa chữa, huấn luyện, hoặc khuyến khích lẫn nhau cho sự trưởng thành trong Đấng Christ, thì Kinh thánh là quyển sách chúng ta cần. Một điều chắc chắn rằng, việc học Kinh thánh không phải là điều duy nhất (hoặc thậm chí là điều chính) chúng ta làm trong một nhóm nhỏ, nhưng nếu không có nó, một nhóm nhỏ sẽ mất đi hơi thở có ý nghĩa quan trọng trong sự duy trì và phát triển.
Học Kinh thánh trong một nhóm nhỏ có thể là cách tốt nhất hoặc cũng là cách tệ nhất để học Kinh thánh. Nó có thể là tốt nhất bởi vì bạn có thể được hưởng lợi từ những cái nhìn sâu sắc và sự kinh nghiệm đầy dẫy Thánh Linh của các tín hữu khác. Nó cũng có thể là tệ nhất vì nhiều lý do khác nhau.
Đó có thể là một anh chàng luôn chiếm ưu thế trong các cuộc thảo luận, hầu như không cho phép bất cứ ai khác để chia sẻ một cái gì đó hoặc đặt câu hỏi. Hoặc là cô gái có cách bày tỏ cảm xúc không mấy liên quan với ý nghĩa của phân đoạn Kinh thánh đang học. Hoặc nó có thể là người luôn luôn hỏi những câu hỏi ngoài lề, không thích hợp và đưa toàn bộ cuộc thảo luận ra ngoài lề quá lâu. Hoặc có thể là ba hoặc bốn người yên lặng không bao giờ nói nhiều hơn hai hoặc ba từ, ngay cả khi bạn đã khuyến khích họ.
Một cách để học Kinh Thánh cùng nhau
Học kinh thánh trong nhóm có thể là một thử thách, nhưng mang lại phần thưởng bổ ích. Kinh thánh mang lại cho chúng ta những phương cách cho các mối quan hệ trong nhóm nhỏ, cái mà chúng ta sẽ không bao giờ có được bằng cách khác. Nó tác động vào cộng đồng Tin lành một cách trực tiếp với năng quyền vô song.
Nếu bạn muốn học Kinh thánh với nhóm của mình, hoặc đã từng thử nghiệm không thành công trong quá khứ thì bạn nên thử phương pháp Thụy Điển (Swedish). Phương pháp học Kinh Thánh này thực ra không có gì quá đặc biệt. Nó được đặt tên như vậy, bởi vì bà Ada Lum, người rất đam mê đọc và nghiên cứu Kinh thánh, đã áp dụng phương pháp này lần đầu tiên trong một nhóm sinh viên người Thụy Điển. Cho dù bạn đọc Kinh thánh một mình, hoặc với một người khác, hoặc trong một nhóm nhỏ, thì phương pháp này yêu cầu bạn xem xét năm điểm cho mỗi phân đoạn Kinh thánh cụ thể.
Một trong những ưu thế của phương pháp này khi so sánh với các phương pháp khác đó là người hướng dẫn không phải chuẩn bị quá nhiều trước buổi nhóm. Nó được dựa trên sự khám phá và đối thoại tương hỗ lẫn nhau. Sẽ thật hữu ích khi có một người mở đầu và dẫn dắt các cuộc đối thoại, nhưng phương thức này sẽ phát huy hiệu quả mạnh mẽ với sự tham gia của tất cả các thành viên trong nhóm, mỗi một người phát hiện và đóng góp một điều gì đó trong năm điểm được nêu ra ở phía dưới.
Năm điểm này được miêu tả bằng những biểu tượng khác nhau, đó là: Cái bóng đèn, Dấu hỏi chấm, Cây thập tự giá, Mũi tên và Bong bóng đối thoại. Tôi sẽ giải thích năm điểm này dựa trên câu Kinh Thánh trong 2 Ti-mô-thê 3:16-17.
1. Cái bóng đèn
Cái bóng đèn tượng trưng cho một điều gì đó „tỏa sáng“ trong phân đoạn Kinh thánh – cái gì đó mới mẻ, tươi mới. Bạn đang bế tắc ở một vấn đề nào đó? Mỗi lần đọc Kinh thánh, Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ cho chúng ta những điều mà chúng ta bỏ quên và chỉ cho những điều chúng ta chưa bao giờ thấy trước đây.
Khi học Kinh thánh trong nhóm nhỏ Chúa sẽ bày tỏ những điều khác nhau cho mỗi một thành viên, làm gia tăng bội phần sự nhận thức và học hỏi trong nhóm. Đức Chúa Trời không bày tỏ cho chúng ta một vấn đề theo ý nghĩa khác nhau, nhưng Ngài muốn chúng ta nhận thức được ý nghĩa thực sự duy nhất của vấn đề đó từ nhiều khía cạnh khác nhau, qua đó giúp chúng ta thấy được sự ảnh hưởng và áp dụng không giới hạn của sự bày tỏ này.
Ví dụ về bóng đèn: Cả Kinh thánh là có ích, chứ không chỉ riêng một vài phân đoạn nào đó mà tôi thấy có ích cho mình. Một trong những thử thách của việc đọc Kinh Thánh đó là hỏi Chúa chỉ cho chúng ta lợi ích Thuộc linh của mỗi một từ mà Ngài ban cho chúng ta.
2. Dấu chấm hỏi
Những câu Kinh thánh này có nêu lên bất kỳ câu hỏi nào khi bạn đọc chúng? Bạn có cảm thấy phân vân trước một từ hoặc câu nào đó, hoặc có sự liên hệ đến một phân đoạn khác trong Kinh thánh, hay một vấn đề cụ thể trong Thần học.
Với mỗi câu hỏi bạn đặt ra, hãy cố gắng tự mình tìm câu trả lời trước khi nhờ đến sự giúp đỡ của ai đó khác. Một vài sự học hỏi sâu nhiệm và kín đáo sẽ đến khi chúng ta thúc ép bản thân tìm kiếm câu trả lời cho chính câu hỏi của chúng ta. Câu trả lời có thể nằm ở chính câu Kinh thánh hoặc chương, quyển sách ta đang đọc, hoặc Chúa sẽ dẫn suy nghĩ của ta đến với câu hoặc phân đoạn nào đó trong Kinh thánh. Hãy dừng lại, cầu nguyện, hỏi Chúa và làm cố gắng hết sức mình. Sau đó hãy tìm tới các thành viên khác trong nhóm để có được những cái nhìn khác.
Ví dụ về dấu chấm hỏi: Tại sao sứ đồ Phao-lô lại liệt kê những lợi ích và cách sử dụng Kinh thánh như ở trong 2 Ti-mô-thê 3:16-17? Có lý do gì mà chúng được sắp xếp theo thứ tự như vậy không?
3. Thập tự giá
Biểu tượng Thập tự giá không có trong phiên bản gốc của phương pháp Swedish , nhưng đã được thêm vào để hướng sự tập trung trong việc đọc Kinh thánh về phía Chúa. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh của Chúa ở đâu trong những câu Kinh thánh này? Chẳng phải Chúa Giê-xu đã nói rằng cả Kinh thánh được chép về Ngài:
Đoạn, Ngài phán rằng: Ấy đó là điều mà khi ta còn ở với các ngươi, ta bảo các ngươi rằng mọi sự đã chép về ta trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri, cùng các Thi Thiên phải được ứng nghiệm. Lu-ca 24:44
Điều gì trong phân đoạn Kinh thánh đang học giúp bạn thấy được hình ảnh Chúa và cây Thập tự giá nhiều hơn? Điều gì đã làm cho bạn cảm thấy yêu Chúa hơn?
Ví dụ về Cây thập tự giá: Chúa Giê-xu đã chết trên Thập tự giá và Kinh Thánh được viết nên bởi sự soi dẫn của Đức Chúa Trời , qua đó mà chúng ta không chỉ được cứu mà còn được trở nên một cách „trọn vẹn“. Đức Chúa Trời cứu chúng ta để làm chúng ta ngày càng được gia tăng, hoàn thiện và trở nên giống như Chúa Giê-xu.
4. Mũi tên
Biểu tượng mũi tên biểu thị cho sự áp dụng cá nhân trên đời sống của chính chúng ta. Nhận biết và cam kết với những điều cảm nhận bằng Linh sẽ dẫn dắt chúng ta làm theo trong sự vâng phục (với lời của Chúa trong đoạn Kinh Thánh). Hãy lên kế hoạch và quyết định dứt khoát rằng chính bạn chứ không ai khác sẽ thực hiện điều đó trong tuần này. Việc học Kinh thánh ở nhiều nhóm nhỏ và cá nhân thiếu sự áp dụng thực tế của Kinh Thánh vào đời sống cá nhân người học. Một trong những cái hay của việc học Kinh thánh theo nhóm đó là sự gắn liền của trách nhiệm giải thích cho người khác. Nếu bạn chia sẻ một cách mạnh dạn sự áp dụng thực tế của mình qua từng bước (để tiến tới sự vâng phục với lời của Chúa), thì chắc chắn những người trong nhóm sẽ quan tâm theo dõi và hỏi về tình hình hiện tại của những áp dụng thực tế đó.
Ví dụ về mũi tên. Khi học Kinh Thánh một mình tôi thường hay đặt ra một số câu hỏi: 1) Chúa muốn dạy dỗ tôi điều gì; 2) Có phải Chúa đang muốn tôi không tiếp tục làm điều gì đó? 3) Có phải Chúa đang muốn sửa đổi những suy nghĩ và hành động sai lệch của tôi?; 4) Hoặc có phải Chúa đang trang bị cho tôi để sống hiệu quả hơn cho Ngài?
5. Bong bóng đối thoại
Bong bóng đối thoại biểu thị cho một điều gì đó để chia sẻ. Hãy viết tên của những người mà bạn nghĩ sẽ được gây dựng khi nghe những điều bạn nhận được trong Kinh thánh. Đó có thể là những điều bạn chia sẻ với các tín hữu khác, hoặc có thể là cách để chia sẻ phúc âm với thân hữu, những người chưa nhận biết Đức Chúa Trời. Bạn chia sẻ niềm vui mừng, sự bình an và sự trông cậy chắc chắn mình nhận được nơi Đức Chúa Trời với người khác bằng cách nào? Hãy xác định cụ thể người mà bạn muốn gặp trong tuần tới và suy nghĩ về thời điểm thích hợp để bạn có thể chia sẻ những điều cụ thể mà Chúa chỉ cho bạn với người đó.
Ví dụ về bong bóng đối thoại: Kinh thánh không chỉ là một quyển sách cũ kỹ chứa đầy lẽ thật và sự khôn ngoan. Nó thực sự thích hợp (có ích) cho đời sống hàng ngày của tôi (và cả của bạn). Chúa muốn chúng ta qua Kinh thánh học cách sống một cuộc sống trọn vẹn và đầy ý nghĩa.
Tại sao?
Một trong những câu hỏi cuối cùng tôi thích đặt ra khi đọc Kinh thánh trong nhóm đó là: Tại sao lại là những câu Kinh thánh này? Chúng ta cố gắng tóm tắt ý định của Chúa khi Ngài đưa những từ ngữ cụ thể này vào trong Kinh thánh. Có một vài cách để hỏi câu hỏi này. Tại sao phân đoạn này lại ở trong quyển sách đó? Kinh thánh sẽ bị thiếu hụt và mất đi ý nghĩa gì khi phân đoạn đó bị bỏ ra. Đâu là điểm chính mà tác giả muốn đề cập tới? Hãy cố gắng gói gọn câu trả lời của bạn trong 1 câu duy nhất.
Ví dụ cho câu hỏi tại sao: 2 Ti-mô-thê 3:16-17 có lẽ miêu tả nhiều hơn bất kỳ phân đoạn Kinh thánh nào mối liên hệ của Đức Chúa Trời với Lời của Ngài (được Chúa soi dẫn), và công bố sự liên quan (có ích) với tất cả sự sống của chúng ta. Sứ đồ Phao-lô (và Chúa) muốn chúng ta thấy năng quyền tuyệt đối của Kinh thánh, qua đó Đức Chúa Trời gây dựng mọi khía cạnh trong sự phát triển thuộc linh của chúng ta.
Chúng ta nhân rộng sự giàu có lời Chúa khi chúng ta đọc và chia sẻ Kinh thánh cùng nhau.
Dịch từ: DesiringGod.org
- Details
- Category: Thảo luận
- Hits: 7174
Một Hội Thánh lớn sẽ khiến bạn cảm thấy lạc lõng, nhưng một nhóm nhỏ sẽ khiến bạn trở nên tự tin và gần gũi. Vì vậy, hãy biến một Hội Thánh lớn trở nên nhỏ bé thông qua Nhóm tế bào và các Nhóm tế bào gắn kết lại khiến một Hội Thánh trở thành một gia đình lớn.
“Tôi và ông xã gặp nhau ở một nhóm tế bào tại nhà thờ Saddleback. Anh ấy là người tiên phong thành lập một nhóm kinh doanh nhỏ có đủ cả nam, nữ, các cặp vợ chồng và cả những người độc thân. Đó là trải nghiệm đầu tiên của tôi tại một nhóm tế bào và cho đến bây giờ, tôi vẫn cùng chồng mình hướng dẫn và hỗ trợ các tế bào đó. Thường thì chúng tôi cùng nhau hướng dẫn nhưng có thời điểm anh ấy hướng dẫn nhóm nam trong khi tôi giúp nhóm nữ.
Cũng giống như bao nhóm nhỏ khác, một số nhóm phát triển với nhiều thành viên tích cực nhưng một vài nhóm lại gặp vấn đề cần giải quyết vì hiệu quả chung của cả nhóm. Chúa đã chỉ cho chúng tôi những sai lầm mà các nhóm nhỏ đã đối diện và cần thay đổi:
1/ Thời gian sinh hoạt của nhóm biến thành thời gian để buôn chuyện
Liệu nhóm của bạn có phải là một nơi an toàn để các thành viên có thể chia sẻ công khai và họ không cảm thấy bị lên án, chỉ trích, hoặc lo lắng rằng những gì họ nói sẽ bị truyền ra ngoài? Liệu những lời cầu nguyện có hoàn toàn riêng tư, liệu các thành viên trong nhóm có kể về một ai đó không phải thành viên của nhóm hoặc cầu nguyện cho những con người, những sự việc mà chưa được sự cho phép của họ?
Các thành viên cần cảm thấy những lời cầu nguyện hoặc cam kết trong suốt thời gian sinh hoạt nhóm là đáng tin và không nên đưa ra thảo luận ngoài phạm vi nhóm khi không có sự cho phép của tất cả các thành viên trong nhóm.
Trong thời gian cầu nguyện, trưởng nhóm phải nhắc nhở các thành viên rằng chỉ cầu nguyện cho cá nhân và không được bàn luận về lời cầu nguyện của mọi người khi chưa được phép.
Các cặp đôi cũng không nên chia sẻ câu chuyện về nửa kia của mình mà không có sự đồng ý cho dù người đó có ở đó hay không. Để giữ gìn tính trách nhiệm về phương diện này, khi một thành viên chia sẻ về nửa kia của mình, trưởng nhóm có thể dẫn dắt vài lời như “Đây là một câu chuyện về ông xã/ bà xã của…, liệu bạn có sẵn sàng cho phép chúng tôi nghe về câu chuyện đó không? Hoặc là “Liệu nửa kia của bạn có vui lòng nếu bạn chia sẻ câu chuyện này không?” Nếu không, hãy đừng kể câu chuyện ra.
2/ Các thành viên cố gắng thay đổi thành viên khác
Liệu các thành viên trong nhóm của bạn có đang cố gắng giải quyết vấn đề của người khác hoặc đưa ra những lời khuyên tự phát?
Các thành viên trong nhóm không nên góp tiếng nói vào cuộc sống của nhau trừ phi được hỏi ý kiến. Thường thì các thành viên chỉ muốn chia sẻ hoàn cảnh của mình và đơn thuần muốn có được tình yêu thương, sự đồng cảm và lời cầu nguyện mà thôi. Cả nhóm cần lắng nghe với thái độ tôn trọng và có thể đóng góp ý kiến cũng như thể hiện sự đồng cảm xuất phát từ kinh nghiệm cá nhân, miễn là những ý nghĩ đó mang tinh thần của Kinh Thánh và cổ vũ tinh thần cho người chia sẻ. Không nên cố gắng sửa hay nhận định rằng “Bạn nên như thế này, như thế kia….”
Đôi khi, một số thành viên gặp nhiều nan đề trong cuộc sống, họ sẽ dành hết thời gian của mọi người và có thể sẽ có thành viên bày tỏ thái độ tiêu cực hoặc khó chịu. Nếu có dấu hiệu như vậy xảy ra trong nhóm, trưởng nhóm nên gợi ý một cách từ tốn với thành viên gặp vấn đề kia rằng “Mình sẽ ở lại sau giờ nhóm và cầu nguyện cùng bạn, hoặc bạn có thể gặp mục sư để được giúp đỡ tốt hơn…”.
3/ Không có sự cam kết trong nhóm
Liệu tất cả các thành viên có đặt lịch sinh hoạt nhóm vào lịch của mình và có trách nhiệm xin phép trước nếu không đến được buổi sinh hoạt đó? Liệu tất cả các thành viên có mong muốn nhất định nào về những gì họ sẽ tiếp thu được từ buổi học và liệu họ có hòa đồng cùng nhóm? Liệu nhóm của bạn chỉ là một nhóm xã hội, một nhóm học Kinh Thánh hay là sự kết hợp của cả hai?
Cam kết và ưu tiên những giờ sinh hoạt của nhóm là điều bắt buộc. Các thành viên không nên có thái độ “Nếu có thể tôi sẽ đến”. Mục tiêu của các nhóm là hình thành ngôi nhà tâm linh để cùng nhau phát triển, hãy tôn trọng thời gian và nỗ lực của những thành viên khác.
Không còn gì thất vọng hơn việc chuẩn bị tất cả cho giờ sinh hoạt của nhóm và sau đó nhận được những cuộc điện thoại, những email vào phút chót báo rằng không đến được. Một cách để chia sẻ cam kết cũng như tính sở hữu của nhóm là san sẻ trách nhiệm cho các thành viên trong nhóm. Do đó, không chỉ trưởng nhóm hay một thành viên nào đó làm mà mỗi người trong nhóm đều có một phần trách nhiệm đối với giờ sinh hoạt chung.
Hãy đảm bảo rằng nhóm có nội quy chỉ rõ mục đích của nhóm và cho phép tất cả các thành viên có cơ hội để bày tỏ nguyện vọng của mình. Đây cũng là cơ hội tốt để tăng thêm hi vọng vào sự tin tưởng và lòng nhiệt thành của các thành viên trong nhóm.
4/ Không có sự nhạy bén với Đức Thánh Linh
Liệu bạn có dành đủ thời gian đọc Lời Chúa và để Đức Thánh Linh dẫn dắt bạn hay bạn chỉ đang cố gắng đọc lướt thật nhanh để hoàn thành xong nhiệm vụ?
Tất cả các thành viên cần đọc Kinh Thánh trong mỗi lần sinh hoạt nhóm. Các thành viên cần dành thời gian cá nhân đọc, học lời Chúa và xin sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh.
Điều quan trọng nữa là thống nhất thời gian kết thúc buổi sinh hoạt để mọi người có thể lên kế hoạch; Đừng quá bận tâm vào việc có bao nhiêu tài liệu được sử dụng trong buổi sinh hoạt. Hãy để Đức Thánh Linh dẫn dắt và làm việc để mỗi người được gây dựng trong Thánh ý của Ngài.
5/ Tham gia nhóm không đều đặn và lạc đề khi thảo luận
Liệu các thành viên có tranh thủ thời gian sinh hoạt và thảo luận về các chủ đề không liên quan? Một số thành viên thì chẳng bao giờ phát biểu, một số thành viên khác thì lại quá tích cực?
Vì sự vững mạnh và phát triển chung của nhóm, các thành viên nên làm bài và đọc bài trước khi đến sinh hoạt để mọi thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia phát biểu.
Một cách hiệu quả để thúc đẩy những thành viên ít tham gia xây dựng bài là mời họ đọc một đoạn Kinh Thánh liên quan đến bài học và sau đó gợi ý họ đưa ra câu trả lời luôn. Để giúp thành viên không cảm thấy áp lực khi là người trả lời đầu tiên thì hãy cùng nhau thảo luận trước sau đó có thể mời các thành viên đó trả lời sau. Những cách này cũng hiệu quả trong việc khiến các thành viên khác không ỷ lại vào các thành viên tiêu biểu trong việc phát biểu và thảo luận.
Nhóm tế bào đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển và tăng trưởng về mặt thuộc linh của Hội Thánh qua việc nhóm lại hàng tuần. Một Hội Thánh lớn sẽ khiến bạn cảm thấy lạc lõng và không thoải mái, nhưng một nhóm nhỏ sẽ khiến bạn trở nên gần gũi và tự tin, vì vậy, hãy biến một Hội Thánh lớn trở nên nhỏ bé thông qua nhóm tế bào; và các nhóm nhỏ gắn kết lại khiến Hội Thánh nhỏ trở thành một gia đình lớn.
Theo: hoithanhhannoi.com
- Details
- Category: Thảo luận
- Hits: 3502
Bạn đang bối rối trong việc đọc Kinh Thánh? Bạn muốn dành thời gian đọc Kinh Thánh nhiều hơn? Bạn từng lên kế hoạch đọc Kinh Thánh nhưng kế hoạch đó lại bị sụp đổ chỉ một tuần sau đó? Bạn luôn nhắc nhờ bản thân rằng, “Mình sẽ bắt đầu đọc Kinh Thánh sau khi điều gì đó xong xuôi”?
Nếu bạn thấy mình hơi giống như trên, tôi sẽ chia sẻ với các bạn 3 điều thường bị bỏ quên trong viêc học Kinh Thánh qua câu Kinh Thánh trong Châm Ngôn 2:1-5
Hỡi con ta, nếu con tiếp nhận lời ta dạy, và trân trọng tuân giữ các điều răn của ta, lắng tai nghe điều khôn ngoan, hướng lòng con về sự thông sáng; Phải, nếu con cầu xin sự thông sáng và cất tiếng khẩn nài sự hiểu biết, nếu con tìm nó như tìm tiền bạc, kiếm nó như kiếm báu vật kín giấu. Bấy giờ con sẽ hiểu biết sự kính sợ Đức Giê-hô-va, và tìm được tri thức về Đức Chúa Trời. Châm Ngôn 2:1-5
1. Tính cấp bách
Những câu trên là lời răn dạy của người cha đối với con, hoặc một tín hữu lâu năm đối với người mới tin Chúa. Người cha muốn con mình học tập Lời Chúa. Đó là vấn đề sống còn trong cuộc sống. Qua sách Châm Ngôn, chúng ta biết rằng tội ác rình rập và tìm cách hủy diệt chúng ta mỗi ngày. Vậy Đức Chúa Trời có đang hiện diện trong bạn không, và bạn có sẵn sàng đón nhận sự hiện diện của Ngài không?
Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta cần nhận ra tính cấp bách này. Thông thường, chúng ta chỉ đơn thuần “đề nghị” mọi người đọc Lời Chúa với phương pháp tự chọn. Nhưng tôi khao khát các bạn trẻ nên học Kinh Thánh. Bởi ngày nay, nhiều chương trình diễn ra khiến chúng ta xao lãng một công việc cấp bách – đó là đọc lời Chúa. Chỉ khi nào bạn coi việc đọc Kinh Thánh là nhiệm vụ sống còn của mình thì bạn mới tự giác đọc và học Kinh Thánh.
Chúng tôi mong muốn các bạn cố gắng trong các trận bóng đá hay học tập thật tốt, thì chúng tôi càng khao khát các bạn học Kinh Thánh mỗi ngày!
2. Tính siêng năng
Hãy cùng để ý đến các ý được nhắc đến trong câu Kinh Thánh nói trên:
Tiếp nhận Lời ta
Trân trọng tuân giữ các điều răn của ta,
Lắng tai nghe điều khôn ngoan,
Hướng lòng con về sự thông sáng;
Cầu xin sự thông sáng
Cất tiếng khẩn nài sự hiểu biết,
Con tìm nó như tìm tiền bạc,
Kiếm nó như kiếm báu vật kín giấu,
Một mặt, chúng ta cần biết được tính cấp bách, mặt khác, chúng ta cũng cần phải chăm chỉ nữa. Đọc Kinh Thánh không dễ dàng. Đọc Kinh Thánh rất khó khăn. Nếu bạn đang cảm thấy không khó khăn thì có thể bạn đang chưa thực sự khám phá sâu sắc Kinh Thánh.
Đọc Kinh Thánh cũng không phải là một việc tự nhiên được tự động hóa, mà yêu cầu bạn phải cần cù, chăm chỉ. Đón nhận, trân trọng, lắng nghe, hướng lòng, cầu xin, lên tiếng và tìm kiếm. Việc tự học Kinh Thánh là một trận chiến, có thể coi đó là trận chiến lớn nhất trong cuộc đời của bạn vì bạn sẽ gặp phải rất nhiều trở ngại và khó khăn. Bạn phải chiến đấu để đón nhận sự hiểu biết và thông sáng.
Có thể chúng ta nên thay đổi cách chúng ta bàn luận về việc đọc Kinh Thánh. Thay vì nói với mọi người “Hãy đọc Kinh Thánh đi”, chúng ta cần phải nhìn nhận thực tế hơn: “Anh bạn à, đọc Kinh Thánh là một thử thách. Nhưng bạn cần kiên trì. Hãy cầu xin sự giúp đỡ và nài xin để có sự thông sáng. Hết lòng tìm kiếm sự hiểu biết. Hãy luôn lắng nghe để không bỏ lỡ những báu vật mà Thiên Chúa dành cho bạn.”
3. Tính tưởng tượng
Cuối cùng, chúng ta thường không nhìn nhận Lời Chúa là một kho báu. Câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng Lời Chúa như tiền bạc và một báu vật kín giấu. Đó là lý do tại sao nhân vật lại “theo đuổi” Lời Chúa như vậy. Ông ấy đang tìm kiếm một vật có giá trị. Tôi đảm bảo rằng rất nhiều vấn đề của chúng ta liên quan đến việc học Kinh Thánh sẽ được giải quyết khi chúng ta nhận ra Kinh Thánh là một báu vật. Bạn sẽ không phải thuyết phục hay nài nỉ một ai đó đi tìm báu vật, vì tìm kiếm báu vật là bản năng tự nhiên của con người.
Điều này có nghĩa rằng chúng ta cần có một thái độ tiếp cận khác đối với việc học Lời Chúa. Chúng ta nên nhìn nhận vấn đề này theo chiều hướng tình cảm hơn là ý chí. Chúng ta cần tưởng tượng nhiều hơn là dựa vào ý chí của chúng ta. Cụm từ “Con tìm nó như tìm tiền bạc, kiếm nó như kiếm báu vật kín giấu” khá là cảm xúc. Có nghĩa rằng điều này kích thích trí tưởng tượng của bạn. Một khi bạn đã tưởng tượng được, thì chắc chắn ý chí và tâm trí của bạn cũng sẽ làm theo.
Vậy, bạn đang học Kinh Thánh như thế nào? Tôi đã quan sát rất nhiều người, tôi thấy chúng ta thường hay vấp phải một trong ba điều trên. Chúng ta thường nghĩ rằng đọc Kinh Thánh là một thói quen, lịch trình hay giúp chúng ta có thêm kiến thức, thì bây giờ hi vọng bạn thay đổi cách suy nghĩ và nhìn thấy tính cấp bách, chăm chỉ và tưởng tượng trong việc học lời Chúa để đạt được những gì Chúa muốn chúng ta làm.
Nguồn: Hội Thánh Tin Lành Hà Nội
- Details
- Category: Thảo luận
- Hits: 2388
Những quan sát mà tác giả bài viết nêu ra không nói đến tầm ảnh hưởng vĩ đại trong chức vụ truyền giáo của Billy Graham (ví dụ như rao giảng cho hơn 200 triệu người), mà nói về những di sản lâu dài mà ông để lại, để từ đó chúng ta có thể rút ra cảm hứng cho cuộc sống và chức vụ của chính chúng ta hôm nay.
Sự công bố cuối cùng về di sản của một người là sự để lại tốt nhất cho các nhà sử học, nhưng trong trường hợp của Billy Graham, một số quan sát đáng tin cậy có thể được đưa ra lúc này. Khi tôi vừa đau buồn vì sự ra đi của ông, cũng vừa vui mừng vì ông giờ được ở với Đấng Cứu Chuộc là Đấng ông yêu mến, tôi đưa ra một số quan sát về di sản lâu dài ông để lại. Những quan sát này không phải là về những ảnh hưởng to lớn trong chức vụ truyền giáo của Billy Graham (như việc ông giảng cho hơn 200 triệu người), mà là về di sản ông để lại mà từ đó chúng ta có thể lấy cảm hứng cho chính cuộc đời và mục vụ của mình ngày hôm nay.
1. Tin vào thẩm quyền của Kinh Thánh
Sau khi đấu tranh với khoảng thời gian đầy những nghi ngờ, được thúc đẩy bởi sự hoài nghi của bạn ông là Charles Templeton, Graham đã đưa ra một cam kết vững chắc để khẳng định Kinh Thánh là Lời đáng tin cậy của Đức Chúa Trời. Cụm từ đáng chú ý trong các bài giảng của ông là “Kinh Thánh nói…”
2. Biết năng quyền của lời cầu nguyện
Ông ấy tiếp tục nhắc lại rằng “Có 3 bí mật trong chức vụ của tôi. Đầu tiên là cầu nguyện; thứ hai là cầu nguyện; và thứ ba cũng là cầu nguyên.” Ông cầu xin Chúa cứu linh hồn những người hư mất. Trong cuốn sách của ông năm 2006, The Journey (tạm dịch: Cuộc Hành Trình), Graham đưa ra lời khuyên: “Mọi người nam người nữ của Chúa đều là những con người cầu nguyện. Một Cơ Đốc nhân cầu nguyện ít hơn là Cơ Đốc nhân ít năng quyền hơn. Qua cả Kinh Thánh và lịch sử Hội Thánh, những người tạo nên ảnh hưởng lớn nhất là người cầu nguyện nhiều nhất.”
3. Biết sự đầy trọn của Đức Thánh Linh
Ông ghi chép lại khoảng thời gian ông ở đảo Anh với người giảng Phúc Âm từ xứ Wales là Stephen Olford, và cách Stephen đã giúp đỡ ông hiểu như thế nào là có được sự đầy trọn của Đức Thánh Linh trên đời sống và sự giảng dạy của một người. Graham nói rằng, bên cạnh việc ông bước đi theo Chúa, thì cuộc gặp gỡ với Stephen Olford là kinh nghiệm thuộc linh quan trọng nhất trong cuộc đời ông. Trong cuốn sách của ông năm 1978, The Holy Spirit (Đức Thánh Linh), Graham trình bày rõ ràng về điều quan trọng với ông: “Không phải chúng ta có Thánh Linh nhiều chừng nào, mà là Thánh Linh có chúng ta nhiều chừng bao.”
4. Tập trung vào thập tự giá
Giống như sứ đồ Phao-lô, ông “quyết định không biết gì khác ngoài Đức Chúa Giê-xu Christ, và Đức Chúa Giê-xu Christ bị đóng đinh vào thập tự giá.” (1 Cô-rinh-tô 2:2). Ở giữa chủ nghĩa thế tục và hoài nghi đang tăng lên, khi những “nhà truyền giáo” khác tránh giảng về thập tự giá, thì Billy Graham nói rõ ràng rằng nếu không có thập tự giá (và sự phục sinh) thì chúng ta không có sứ điệp Phúc Âm. Ông can đảm công bố rằng sự cứu rỗi chỉ được tìm thấy qua thập tự giá của Đấng Christ.
5. Đẩy mạnh sự truyền giáo cá nhân
Ông nhận ra rằng Chúa đã kêu giọi ông trở thành người truyền giáo cho hàng triệu người, nhưng ông cũng hiểu rằng phần lớn con người ta đến với Đấng Christ là qua sự làm chứng của những Cơ Đốc nhân trung tín. Qua nhiều năm, Hiệp Hội Truyền Giáo Billy Graham đã tài trợ cho hàng trăm buổi huấn luyện để trang bị Cơ Đốc nhân trong việc chia sẻ Phúc Âm.
6. Chuẩn bị cho tương lai
Ông biết rằng Chúa có thể chưa trở lại khi ông còn sống, và nhu cầu cho chức vụ chia sẻ Phúc Âm nên tiếp tục khi ông không còn giảng nữa. Một trong những di sản lâu dài của ông mà tôi có vinh dự được dự phần là Trường Truyền Giáo Billy Graham ở Viện Thần Học Báp-tít Nam Phương. Graham yêu mến ngôi trường này (ngôi trường duy nhất trên thế giới mang tên ông) và rất phấn khởi về những khóa huấn luyện tiếp diễn mà những người nam người nữ sẽ được nhận ở đây sau khi ông qua đời.
7. Sống một đời sống thánh khiết
Qua chức vụ đáng chú ý của ông, trải qua khoảng 8 thập kỷ, chưa bao giờ có vụ tai tiếng nào. Từ rất sớm trong chức vụ Graham đã cam kết bảo vệ cuộc sống của ông và chức vụ khỏi tai tiếng – đặt ra tiêu chuẩn cao về cả trách nhiệm tài chính và đạo đức về tình dục. Chúng ta có thể giải thích sức ảnh hưởng của Graham như thế nào? Vợ ông Ruth đã nói có lẽ việc giải thích ảnh hưởng của ông trên toàn cầu là tốt nhất. Bà cho rằng, “Billy không phải là người giảng tuyệt vời – nhưng ông ấy là người nam thánh khiết.”
Di sản nào Billy Graham đã để lại cho chúng ta? Ông đã làm gương là một người tin chắc vào thẩm quyền của Kinh Thánh, biết năng quyền của lời cầu nguyện, kinh nghiệm sự đầy trọn của Đức Thánh Linh, tập trung vào thập tự giá, thúc đẩy sự truyền giáo cá nhân, chuẩn bị cho tương lai và sống một đời sống thánh khiết.
Trong một cuộc thập tự chinh mở rộng của mình, Billy có em rể mình là Leighton Ford giảng trong một buổi tối để ông có thể nghỉ ngơi. Billy muốn ở đó để cầu nguyện cho Leighton khi giảng, nên ông đã đeo kính râm và đội mũ, đi ra ngoài và ngồi ở hàng ghế người nghe tối hôm đó.
Billy cảm nhận được người đàn ông ngồi bên cạnh mình đang thấy bị cáo trách bởi sứ điệp, và khi Ford đưa ra lời kêu gọi, Billy đã hỏi người đàn ông này nếu ông ấy muốn tiến lên và cam kết đi theo Đấng Christ. Người đàn ông nhìn Billy và nói, “Không, tôi nghĩ tôi sẽ đợi đến ngày mai khi “khẩu súng lớn” [là chính Billy] giảng.”
Thế giới đã mất đi một nhà vô địch ngày hôm nay; nhưng Billy Graham sẽ muốn nói với mọi người tin rằng, “Đừng đợi cho đến khi “khẩu súng lớn” tiếp theo xuất hiện. Hãy đi và chia sẻ về Đấng Christ với gia đình, đồng nghiệp, bạn học, hàng xóm, bạn bè hay người bạn quen ngày hôm nay.” Đó chính là di sản Graham để lại và cách ông ấy muốn chúng ta đáp ứng lại với tin ông ấy trở về nhà hôm nay.
Theo: Hội Thánh Hà Nội/Southern Equip- Details
- Category: Thảo luận
- Hits: 2719
Martin Luther đã đóng góp một vai trò lớn trong cuộc cải chánh Tin Lành vào thế kỷ thứ 16. Ông cũng góp phần trong việc dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức để cho nhiều người được tiếp cận với lời Chúa hơn. Kể từ đó, phong trào cải chánh Tin Lành lan khắp châu Âu và thế giới ngày nay. Dưới đây là 95 Luận đề phản chứng của Mục sư Martin Luther về Quyền năng và Thực quả của Bùa Giải tội viết ngày 31 tháng 10 năm 1517.
Tiến sĩ Martin Luther treo 95 “Luận đề” tại cửa nhà thờ của lâu đài Wittenberg (nơi treo các thông báo của viện đại học) vào ngày 31/10/1517
Trong danh Chúa Giê-xu Christ của chúng ta. A-men.
1. Khi Chúa Giê-xu Christ và là Chúa của chúng ta nói rằng “Poenitentiam agite” tức: Các ngươi hãy ăn năn, thì Ngài muốn rằng suốt cả cuộc đời của người tin Chúa là một sự ăn năn.
2. Từ ngữ này không thể được hiểu như là nghi thức (bí-tích) giải tội của Công Giáo, tức là sự xưng tội và đọc Kinh giải tội như cách mà các linh mục đã làm.
3. Dầu vậy, từ ngữ này không phải chỉ nói về sự ăn năn bên trong không thôi: không đâu, không có một sự ăn năn bên trong nào mà lại không góp phần vào sự làm chết đi những gì của xác thịt.
4. Thế nên, hình phạt (của tội lỗi) vẫn còn tiếp tục nếu sự ghét bỏ chính mình vẫn còn tiếp tục, bởi vì đây mới chính thực là sự ăn năn bên trong, và sự ăn năn bên trong sẽ còn tiếp tục cho đến khi chúng ta bước vào thiên đàng.
5. Vị Giáo Hoàng không hề có ý định xóa bỏ, và cũng không đủ sức xóa bỏ bất kỳ một hình phạt nào, ngoại trừ những hình phạt mà ông đã áp đặt, hoặc bằng chính thẩm quyền của mình, hoặc bằng thẩm quyền của Giáo luật.
6. Vị Giáo Hoàng không thể xóa được bất kỳ một tội nào, trừ phi bằng cách công bố rằng tội ấy đã được Đức Chúa Trời xóa bỏ, và bằng cách chấp nhận sự tha tội của Đức Chúa Trời; dầu vậy, để cho được chắc chắn, vị Giáo Hoàng có thể ban sự tha tội trong những vụ nào đã được để riêng ra chờ sự phán quyết của ông. Nếu quyền ban cho sự tha tội ấy của ông trong những vụ ấy bị khinh thường, thì tội ấy vẫn hoàn toàn chưa được tha.
7. Đức Chúa Trời không tha tội cho bất kỳ người nào mà Ngài không đồng thời bắt phục họ trở nên khiêm nhường trong mọi mặt, và khiến người phải chịu thuận phục vị cha xứ của Ngài, tức vị linh mục sở tại.
8. Những giáo luật về sự ăn năn chỉ được áp đặt trên người còn sống, và theo như những giáo luật ấy, chúng ta không nên áp đặt một điều gì trên người sắp chết.
9. Thế nên, Đức Thánh Linh ngự trong vị Giáo Hoàng tỏ ra rất nhân từ với chúng ta, bởi vì trong những đạo luật của ông, ông luôn xem những điều khoản nói về sự chết và về nhu cầu là những trường hợp ngoại lệ.
10. Trong trường hợp những người sắp chết, mà những linh mục nào lại để dành cách giải tội theo như giáo điều cho đến khi những người này vào “ngục luyện tội”, thì đó là những việc làm vô tâm và độc ác.
11. Việc đổi hình phạt theo giáo luật thành hình phạt của ngục luyện tội rõ ràng là một trong những giống cỏ lùng đã được gieo ra trong lúc các vị giám mục đang ngủ.
12. Trong thời gian trước đây, những hình phạt theo giáo luật được áp đặt trước khi, chứ không phải được áp đặt sau khi đã được tha tội, như là những sự chứng nghiệm về sự ăn năn thật.
13. Người sắp chết được miễn tất cả mọi hình phạt khi họ qua đời; vì họ xem như đã chết rồi đối với giáo luật, và có quyền được giải thoát khỏi những giáo luật đó.
14. Sự lành mạnh không toàn hảo (của linh hồn), tức chúng tôi muốn nói rằng, tình yêu không toàn hảo của người sắp chết mang đến sự sợ hãi lớn không thể trán được; nếu tình yêu đó càng ít, thì sự sợ hãi càng lớn.
15. Sự sợ hãi này cùng sự kinh khiếp tự chúng đã đủ để tạo thành hình phạt của ngục luyện tội, bởi vì điều ấy rất gần với sự kinh khiếp của tuyệt vọng.
16. Địa ngục, ngục luyện tội, và thiên đàng có vẻ như khác việt nhau một cách tương tự như sự khác biệt giữa tuyệt vọng, gần tuyệt vọng và sự bảo đảm an toàn.
17. Đối với những linh hồn ở trong ngục luyện tội thì điều cần có là sự kinh khiếp nên giảm đi và tình yêu thương phải tăng lên.
18. Chúng ta thấy điều có vẻ như không chứng minh được, dù bằng lý luận hay Kinh Thánh, là những linh hồn ấy ở ngoài tình trạng được thưởng, chúng tôi muốn nói là, tình trạng tình yêu thương được tăng thêm.
19. Còn nữa, điều chúng ta thấy có vẻ như không chứng minh được là họ, hay ít ra là tất những linh hồn ấy lại tỏ ra chắc chắn, hoặc được cho biết chắc về tình trạng được phước của chính họ, mặc dù chúng ta biết khá chắc chắn về việc này.
20. Thế nên, khi nói rằng “xóa sổ hoàn toàn mọi hình phạt”, thì vị Giáo Hoàng không thực sự có ý nói là “mọi hình phạt” nhưng chỉ nói những hình phạt nào mà chính ông đã áp đặt.
21. Thế nên những người nào giảng về bùa giải tội đều là sai, tức những người nào nói rằng qua bùa giải tội của vị Giáo Hoàng thì một người sẽ được giải thoát khỏi mọi hình phạt, và linh hồn sẽ được cứu.
22. Trong khi đó vị Giáo Hoàng lại không xóa một hình phạt nào cho những linh hồn ở trong ngục luyện tội, mà đáng lý ra theo giáo luật, họ phải trả trước rồi trong đời này.
23. Nếu bằng mọi cách nào có thể được để ban sự xóa sạch mọi hình phạt cho bất kỳ ai dù tội ấy có như thế nào đi chăng nữa, thì điều chúng ta biết rằng sự xóa tội này chỉ có thể ban được cho những ai toàn hảo nhất, tức là, chỉ cho một số người ít nhất.
24. Thế nên, điều ắt có và phải có là phần lớn người ta đã bị đánh lừa bởi lời hứa lầm lẫn về sự giải thoát khỏi hình phạt nghe rất kêu này.
25. Nói một cách tổng quát, thẩm quyền mà vị Giáo Hoàng có được trên ngục luyện tội, là chỉ giống như thẩm quyền mà bất kỳ một vị giám mục, hay cha xứ có trong vòng địa phận, hay giáo xứ của họ, trong trường hợp riêng biệt này.
26. Vị Giáo Hoàng làm một điều phải, khi người ban phát sự xóa tội cho những linh hồn (ở trong ngục luyện tội), không bởi quyền năng của chìa khóa ngục (mà chính người không có giữ), nhưng bởi sự cầu thay.
27. Người ta đã giảng dạy rằng ngay khi những đồng tiền rơi leng keng vào trong hộp tiền dâng, thì các linh hồn sẽ bay ra khỏi ngục luyện tội.
28. Điều chắc chắn là khi các đồng tiền rơi leng keng vào trong hộp tiền dâng, thì vật chất và lòng tham vật chất có thể tăng lên, nhưng kết quả sự cầu thay của Hội Thánh nằm trong quyền năng của chỉ riêng Đức Chúa Trời mà thôi.
29. Nào ai biết được rằng có phải mọi linh hồn trong ngục luyện tội đều muốn được chuộc ra khỏi nơi đó hay không, như trong huyền thoại của Thánh đồ Severinus và Thánh đồ Paschal.
30. Không một ai biết được chắc chắn rằng sự ăn của chính họ là thành thật hay không, đừng nói chi đến việc họ có nhậnn được sự xóa tội hoàn toàn hay không.
31. Người thực sự ăn năn tội lỗi đã thật hiếm rồi, mà người thực sự tin vào bùa giải tội cũng hiếm tương tự, nghĩa là những người như vậy cực kỳ hiếm có.
32. Họ sẽ bị rủa sả đời đời cùng với các thầy giáo của họ, là những người tin rằng chính học cảm thấy chắc chắn về sự cứu rỗi của mình bởi vì họ có thư ân xá.
33. Quý vị phải cảnh giác về những người nào nói rằng sự ân xá của vị Giáo Hoàng là quà tặng của Đức Chúa Trời lớn không tưởng được mà nhờ đó con người được hòa thuận lại với Đức Chúa Trời.
34. Bởi vì những “ân điển của sự ân xá” này chỉ quan tâm đến những hình phạt về sự cứu chuộc theo giáo điều, và những điều này do con người định ra.
35. Họ giảng rằng không một giáo lý Cơ Đốc nào dạy dỗ rằng không cần thiết phải có sự ăn năn cho những người nào định mua linh hồn ra khỏi ngục luyện tội, hoặc định mua lời xưng tội.
36. Mọi Cơ Đốc Nhân nào thực sự ăn năn đều có quyền được tha các hình phạt và xóa tội hoàn toàn, ngay cả khi họ không có thư ân xá.
37. Mọi Cơ Đốc Nhân thật, dù còn sống hay đã chết, điều được dự phần trong mọi ơn phước của Chúa Giê-xu Christ và của Hội Thánh, và điều này được chính Đức Chúa Trời ban cho, ngay cả khi họ không có thư ân xá.
38. Tuy nhiên xóa tội và dự phần (vào ân phước của Hội Thánh nào mà được vị Giáo Hoàng ban cho thì không ai có quyền khi rẻ, bởi vì như tôi đã nói, chúng là sự công bố của sự tha tội thiên thượng.
39. Thật là một điều khó khăn nhất, cho ngay cả những nhà thần học sắc bén nhất, là trong một lần, và cùng một lúc, tuyên dương với dân chúng sự dư dật của ân xá và (sự cần thiết) phải có của ăn năn thật.
40. Sự ăn năn thật tìm kiếm và yêu mến hình phạt, nhưng sự ân xá không nghiêm chỉnh chỉ làm nhẹ đi hình phạt, và khiến chúng trở nên bị ghét bỏ, hay ít ra, tạo cơ hội cho việc ấy (để ghét bỏ chúng).
41. Sự ân xá bởi các thánh đồ cần được giảng dạy một cách dè dặt, vì sợ rằng dân chúng có thể nghĩ một cách sai lầm rằng điều này tốt hơn là những việc lành khác của tình yêu thương.
42. Cơ Đốc Nhân phải được dạy dỗ rằng vị Giáo Hoàng không có ý định rằng người ta đem so sánh dưới bất cứ hình thức nào việc mua sự ân xá với việc làm do lòng thương xót.
43. Cơ Đốc Nhân phải được dạy dỗ rằng ai giúp đỡ kẻ nghèo khó, hay cho người đang cần dùng vay mượn thì làm việc lành tốt hơn là mua giấy ân xá.
44. Bởi vì tình yêu thương được sinh ra bởi những việc làm của tình yêu thương, và con người nhờ đó sẽ trở nên tốt hơn; nhưng con người không trở nên tốt hơn bởi giấy ân xá, mà chỉ được tự do khỏi sự hình phạt hơn.
45. Cơ Đốc Nhân phải được dạy dỗ rằng ai thấy người khác đang có nhu cầu nhưng bỏ tránh xa và dùng tiền của mình mua sự ân xá, thì người ấy không phải mua được bùa giải tội của vị Giáo Hoàng, nhưng mua lấy sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời.
46. Cơ Đốc Nhân phải được dạy dỗ rằng trừ phi họ có nhiều hơn những gì họ cần, họ bắt buộc phải giữ lại những gì cần thiết cho chính gia đình họ, và không được dùng phung phí cho giấy ân xá dưới bất cứ hình thức nào.
47. Cơ Đốc Nhân phải được dạy dỗ rằng việc mua giấy ân xá là vấn đề tự ý, không phải điều răn.
48. Cơ Đốc Nhân phải được dạy dỗ rằng khi ban cho sự ân xá, vị Giáo Hoàng cần, và do đó, ông cũng mong mỏi những lời cầu nguyện khẩn thiết của họ dành cho ông hơn là những món tiền các Cơ Đốc Nhân này đem đến.
49. Cơ Đốc Nhân phải được dạy dỗ rằng những sự ân xá của vị Giáo Hoàng là có ích nếu họ không đặt niềm tin vào chúng, những chúng hoàn toàn là có hại, nếu bởi vì cớ chúng mà họ mất đi lòng kính sợ Đức Chúa Trời.
50. Cơ Đốc Nhân phải được dạy dỗ rằng nếu vị Giáo Hoàng biết được những thủ đoạn vòi tiền của những người giảng dạy về sự ân xá, thì người sẽ ước thà rằng ngôi vương cung thánh đường St. Peter bị thiêu hủy thành tro bụi còn hơn là để ngôi nhà này được dựng nên bằng da thịt, máu xương của bầy chiên người.
51. Cơ Đốc Nhân phải được dạy dỗ rằng điều mà Giáo Hoàng ước muốn, và đồng thời cũng chính là bổn phận của người, là phải đem tiền của chính mình đi cho rất nhiều người khác mà trước đây đã bị những kẻ rao bán sự ân xá dụ dỗ tiền bạc, cho dù người phải bán đi ngôi vương cung thánh đường St.Peter để làm việc ấy.
52. Sự bảo đảm cứu rỗi nhờ thư ân xá là vô nghĩa ngay cả khi người được ủy nhiệm, không đâu, ngay cả khi chính Giáo Hoàng đặt linh hồn người lên để bảo đảm.
53. Những kẻ nào bưng bít lời Chúa để hoàn toàn không được rao giảng tại một số Hội Thánh hầu cho sự ân xá được rao giảng ở những chỗ khác, thì ấy là kẻ thù của Đấng Christ và của Giáo Hoàng.
54. Khi trong cùng một bài giảng mà người ta dùng thời gian bằng hay nhiều hơn để giảng về sự ân xá so với thời gian giảng lời Chúa, thì điều này làm tổn thương đến Lời của Đức Chúa Trời.
55. Ý định của Giáo Hoàng bắt buộc phải là, nếu sự ân xá, vốn là một việc rất nhỏ, được đón mừng bằng một tiếng chuông cùng một lần diễu hành và nghi lễ, thì Phúc âm của Chúa, chính là một điều thật vĩ đại, phải được rao giảng với một trăm hồi chuông, một trăm lần diễu hành và một trăm lần nghi lễ.
56. Những “bảo vật của Hội Thánh” mà vị Giáo Hoàng đã dùng để ban phát vùa giải tội, đã không được nên tên đúng mức và cũng không được biết đến trong vòng dân sự Đức Chúa Trời.
57. Rằng chúng không phải là bảo vật tạm thời là điều rõ ràng lắm, bởi vì rất nhiều kẻ bán rao đã không có Giáo Hoàng, thì những điều này trở nên ân điển cho con người bề trong, và là thập tự giá, sự chết, và Địa ngục cho con người bề ngoài.
58. Và chúng cũng không là những công đức của Đấng Christ và của các Hội Thánh, bởi vì ngay cả khi không có Giáo Hoàng, thì những điều này trở nên ân điển cho con người bề trong, và là thập tự giá, sự chết, và Địa ngục cho con người bề ngoài.
59. Thánh Lawrence nói rằng những bảo vật của Hội Thánh là những kẻ nghèo khó của Hội Thánh, nhưng người nói vậy là theo như cách dùng ngôn từ của thời người đang sống.
60. Chúng tôi có thể nói một cách không cẩu thả rằng chìa khóa của Hội Thánh mà đã được ban cho bởi công đức của Đấng Christ, chính là bảo vật ấy.
61. Bởi vì điều chúng ta thấy rõ là để có thể xóa bỏ những hình phạt và những trường hợp được dành riêng cho người, thì thẩm quyền của bị Giáo Hoàng tự nó đã là đủ.
62. Bảo vật thật của Hội Thánh là Phúc âm chí thánh của sự vinh hiển và ân điển của Đức Chúa Trời.
63. Nhưng bảo vật này lẽ ra tự nhiên là đáng ghét nhất, vì nó khiến kẻ đầu trở nên kẻ sau rốt.
64. Mặt khác, bảo vật bùa chú giải tội thì lẽ tự nhiên là dễ chấp nhận nhất, vì nó khiến sau rốt trở nên đầu.
65. Thế nên những bảo vật của Phúc âm là những cái lưới mà trước đây họ quen dùng để đánh lưới những con người của sự giàu có.
66. Còn bảo vật của bùa giải tội là những cái lưới mà bây giờ họ dùng để đánh lưới những sự giàu có của con người.
67. Những bùa giải tội mà các thầy giảng kêu lên rằng ấy là “những ân điển vĩ đại nhất”, thì đã được người ta biết quả là có như vậy, nếu chỉ nói đến việc chúng góp phần vào sự gia tăng lợi lộc.
68. Nhưng thực ra chúng là những ân điển nhỏ nhất so với ân điển của Đức Chúa Trời và sự đạo đức của Thập tự giá.
69. Các giám mục và cha xứ bắt buộc phải công nhận sự ủy nhiệm của ân xá bởi sứ đồ bằng tất cả lòng tôn kính.
70. Nhưng họ còn bị bắt buộc nhiều hơn thế nữa, là họ phải mở mắt to để nhìn cho rõ, lắng tai nghe thật chăm chú, vì e rằng những thầy giảng này rao giảng những giấc mơ riêng của họ thay vì rao giảng những gì theo sự ủy nhiệm của Giáo Hoàng.
71. Người nào mà nói nghịch lại lẽ thật về sự ân xá bởi sứ đồ, nguyện cho hắn bị dứt phép thông công và bị rủa sả!
72. Nhưng người nào chống trả lại dục vọng và sự cấp phép cho các thầy giảng bùa ân xá, thì nguyện người ấy được hưởng phước!
73. Vị Giáo Hoàng đã làm việc công chính khi người cảnh cáo những kẻ đã dùng mọi xảo thuật để mưu định sự thương tổn của việc mua bán thư ân xá.
74. Nhưng người còn định cảnh cáo nhiều hơn thế nữa những kẻ nào dùng chiêu bài ân xá để mưu định sự thương tổn và tình yêu thương và lẽ thật thánh thiện.
75. Nếu ai nghĩ rằng sự ân xá của Giáo Hoàng là vĩ đại đến độ chúng có thể xá sạch tội cho một người ngay cả khi ấy đã phạm tội lớn không tưởng được và đã xâm phạm đến người mẹ của Đức Chúa Con, thì đấy là sự đên cuồng.
76. Trái lại, chúng tôi nói rằng, sự ân xá của Giáo Hoàng không đủ sức để xóa đi dù là tội nhỏ nhất của những tội loại không đáng chết.
77. Người ta nói rằng ngay cả Thánh Phi-e-rơ nếu bây giờ là Giáo Hoàng, cũng không ban cho ân điển lớn hơn được, đây là lời phạm thượng đối với Thánh Phi-e-rơ và đối với Giáo Hoàng.
78. Trái lại, chúng tôi nói rằng, ngay cả Giáo Hoàng hiện tại hay bất kỳ một Giáo Hoàng nào nói chung, đều có sẵn những ân điển lớn hơn để người tùy tiện sử dụng; tức là Phúc âm, quyền năng, ân tứ chữa bệnh, v.v…như đã được chép trong I Cô-rinh-tô 12.
79. Nếu người ta nói rằng thập tự giá, khi được chạm trổ cầu kì bằng huy hiệu của Giáo Hoàng, vốn là sự sắp đặt (bởi những kẻ rao giảng về thu ấn xá), thì có giá trị ngang với Thập tự giá của Đấng Christ, thì ấy là tội phạm thượng.
80. Các vị giám mục, linh mục và các vị giáo sư thần học nào cho phép những câu chuyện như vậy lan truyền trong vòng dân sự thì có một món nợ phải trả.
81. Sự giảng dạy không hạn chế về thư ân xá này khiến cho sự việc trở nên không dễ dàng, cho ngay cả những người giàu kiến thức, để có thể cứu vãn sự tôn kính mà vị Giáo Hoàng đáng được hưởng khỏi bị hoen ố, kể cả việc cứu vãn khỏi những câu hỏi tinh tế của hàng giáo dân.
82. Tức họ nói rằng: “Tại sao vị Giáo Hoàng lại không đại phóng thích ngục luyện tội vì cớ tình yêu thường, và vì nhu cầu cấp bách của những linh hồn hiện đang ở đó, mà lại cứu vô số kể những linh hồn để được những món tiền đáng thương, rồi dùng tiền đó để xây dựng thánh đường ? Những lý do đầu thật công bình, còn những lý do sau thì thật là vụn vặt.”
83. Còn nữa: “Tại sao những thánh lễ an táng và kỷ niệm tang lễ cho người đã chết vẫn còn được tiếp tục, và tại sao vị Giáo Hoàng lại không thay mặt cho họ hoàn lại, hay cho phép rút ra khoản tiền hứa dâng, bởi vì việc cầu nguyện cho người đã được cứu chuộc là điều sai trật ?”
84. Còn nữa: “Sự đạo đức mới này của Đức Chúa Trời và của vị Giáo Hoàng là như thế nào, khi chỉ vì tiền mà các Đấng ấy lại cho phép một người vốn là vô đạo đức và là kẻ thù của các Đấng ấy, mua ra khỏi ngục luyện tội một linh hồn đạo đức của một người bạn Đức Chúa Trời, mà các Đấng ấy lại không vì chính nhu cầu của linh hồn đạo đức thân yêu ấy mà giải thoát linh hồn này bởi cớ một tình yêu thương đơn thuần?”
85. Còn nữa: “Tại sao qua những dữ kiện thực tế và qua sự không sử dụng cho thấy rằng những kinh giải tội đã bị mất hiệu lực và đã chết từ lâu rồi, mà bây giờ chúng lại được xem là điều kiện qua sự ban bố bùa giải tội, như thể là chúng vẫn còn sống, và đang sống một cách mạnh mẽ?”
86. Còn nữa: “Tại sao vị Giáo Hoàng, ngày hôm nay vốn là người mà sự giàu có còn hơn cả người giàu nhất của những người giàu, lại không dùng tiền của chính mình để xây ngôi vương cung thánh đường St. Peter, mà lại dùng tiền của những tín đồ nghèo để xây?”
87. Còn nữa: “Vị Giáo Hoàng tha những gì, và những ban bố sự dự phần nào cho những người mà qua sự ăn năn hoàn toàn của họ, họ có quyền được hưởng sự tha tội hoàn toàn và được dự phần hoàn toàn?”
88. Còn nữa: “Có ơn phước nào đến với Hội Thánh lớn hơn bằng ơn phước khi vị giáo ngày ngày hôm nay chỉ cần làm một lần những gì người mà trước đây người phải làm hằng trăm lần mỗi ngày, và ban phát được cho mọi tín đồ những sự tha tội và dự phần này?”
89. “Bởi vì vị Giáo Hoàng, qua sự ân xá của người, đi tìm kiếm sự cứu rỗi cho linh hồn hơn là đi tìm tiền bạc, thì tại sao người lại đình chỉ những bùa giải tội và thu ân xá đã được ban bố từ trước đến bây giờ, trong khi những vật này có thực quả tương đương?”
90. Nếu chỉ dùng sức mạnh để bắt phục những sự tranh luận và ngờ vực của hàng giáo dân, mà không giải quyết bằng cách trình bày lý lẽ, tức là phơi bày Hội Thánh và vị Giáo Hoàng cho kẻ thù bêu rếu, và làm cho các Cơ Đốc Nhân buồn lòng.
91. CHo nên, nếu những thư ân xá được rao giảng theo tâm linh và tâm trí của vị Giáo Hoàng, thì tất cả những ngờ vực này sẽ được hóa giải dễ dàng, không phải vậy, chúng sẽ không còn hiện hữu.
92. Vậy đó, hỡi những tiên tri nào mà nói với dân sự của Đấng Christ rằng: “Bình an, bình an”, trong khi không có sự bình an, các ngươi hãy dang xa ra!
93. Nguyện ơn phước đến cho những tiên tri nào nói với dân sự của Đấng Christ là: “Thập tự giá, thập tự giá” trong khi không có thập tự giá!
94. Cơ Đốc Nhân phải được thúc dục rằng họ cần phải bền đỗ trong việc theo Đấng Christ, là Đầu của họ, để vượt qua những hình phạt, sự chết, và địa ngục.
95. Và vì thế, họ sẽ trở nên tin quyết về việc vào thiên đàng qua nhiều sự khổ nạn, hơn là qua sự bảo đảm bình an.
Theo: hoithanhhanoi.com/luther.de
- Details
- Category: Thảo luận
- Hits: 3288
Kinh Thánh chứa đựng những chân lý phù hợp trong mọi hoàn cảnh và đối với mọi đối tượng. Có rất nhiều câu Kinh Thánh đề cập đến cách sống và làm việc của chúng ta nhằm giúp chúng ta có một cuộc sống ý nghĩa và hiệu quả theo ý muốn tốt lành của Đức Chúa Trời.
Quan điểm của Kinh Thánh về năng suất hiệu quả công việc rất khác quan điểm trong nền văn hóa của chúng ta:
• Nền văn hóa cho rằng công việc giúp chúng ta tự hoàn thiện bản thân. Kinh Thánh nói rằng công việc giúp chúng ta làm sáng danh Chúa (Cô-lô-se 3:17, 23)
• Nền văn hóa khuyên chúng ta nên tích trữ của cải càng nhiều càng tốt. Kinh Thánh dạy chúng ta phải tìm kiếm của cải đời đời hơn là của cải trên trần gian này. (Ma-thi-ơ 6:19-20)
• Nền văn hóa nghĩ rằng sự thờ phượng là những gì Cơ đốc nhân làm trong một giờ đồng hồ vào mỗi Chúa Nhật. Kinh Thánh nói rằng chúng ta có thể làm mọi điều trong danh Chúa Giê-xu và tạ ơn Đức Chúa Cha qua Ngài (Cô-lô-se 3:17).
Bạn cần thờ phượng Đức Chúa Trời trong công việc của mình: qua thái độ, việc làm chứng và việc thực hiện các công việc của bạn. Bạn cần làm việc nghiêm túc và hiệu quả để dâng vinh quang lên cho Đức Chúa Trời.
Công việc của bạn có ý nghĩa lớn đối với Đức Chúa Trời và rất quan trọng trong mắt Ngài. Điều này đúng đối với mọi công việc bạn làm. Nếu công việc bạn đang làm để kiếm sống là lau rửa sàn nhà, hãy lau sàn để dâng vinh quang lên Đức Chúa Trời. Làm việc năng suất và sử dụng tối đa hóa thời gian giúp bạn tôn cao Đức Chúa Trời. Đây chính là cách làm việc của Cơ đốc nhân.
Martin Luther King Jr. từng nói:
"Nếu một người được kêu gọi làm người lao công quét dọn đường phố, anh ta nên quét dọn giống như Michelangelo vẽ tranh, hay Beethoven sáng tác âm nhạc, hoặc Shakespeare viết kịch. Anh ta nên quét đường phố sạch đến mức cả thiên đàng và dưới đất sẽ dừng lại và nói ở đây có một người quét đường phố rất sạch, anh ấy đã làm tốt công việc của mình."
Dưới đây là những câu Kinh Thánh nói về năng suất hiệu quả công việc. cầu xin Đức Chúa Trời sử dụng chúng làm khuôn mẫu cho tâm trí và tấm lòng của bạn để bất cứ việc gì bạn làm đều vì vinh hiển của Chúa mà làm.
1. Nhận ra rằng Đức Chúa Trời tạo nên bạn và muốn bạn luôn làm hiệu quả mọi công việc mình làm
“Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán: Hãy sinh sản, gia tăng gấp bội và làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời và mọi loài bò sát trên mặt đất.” (Sáng thế ký 1:28)
2. Biết rằng Chúa Giê-xu yêu cầu lợi nhuận từ chính những công việc chúng ta làm
Ngụ ngôn về ta-lâng trong Ma-thi-ơ 25: 14-30 cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-xu muốn chúng ta sử dụng thời gian của chúng ta một cách tốt nhất vì có danh Ngài.
“Hỡi đầy tớ ngay lành và trung tín kia, được lắm! Ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt người cai quản nhiều. Hãy vào chung hưởng niềm vui với chủ ngươi” (Ma-thi-ơ 25:23)
3. Tìm kiếm một cuộc sống năng suất bởi vì điều này quan trọng với Đức Chúa Trời
“Vậy, hãy xem xét cẩn thận cách sống của anh em, đừng sống như người dại dột, nhưng sống như người khôn ngoan. Hãy tận dụng thì giờ, vì những ngày là xấu. Vì vậy, đừng trở nên như người dại dột, nhưng phải hiểu rõ thế nào là ý muốn của Chúa.” (Ê-phê-sô 5:15-17)
“Cầu xin Chúa dạy chúng con biết đếm các ngày chúng con, Hầu cho chúng con được lòng khôn ngoan.” (Thi thiên 90:12)
4. Hành động trong quyền năng của Đức Chúa Trời, làm việc vì sự hòa bình và thịnh vượng của tất cả mọi người
“Hãy tìm cầu sự thịnh vượng cho thành mà ta đày các con đến. Hãy cầu nguyện với Đức Giê-hô-va; vì sự thịnh vượng của nó là sự thịnh vượng của các con.” (Giê-rê-mi 29:7)
“Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu sáng trước mặt mọi người, để họ thấy những việc làm tốt đẹp của các con và ca ngợi Cha các con ở trên trời.” (Ma-thi-ơ 5:16)
5. Nhận biết rằng làm việc lành là cách Đức Chúa Trời mô tả về một cuộc sống hiệu quả
“Vì chúng ta là công trình của tay Ngài, được tạo dựng trong Đấng Christ Jêsus để thực hiện những việc lành mà Đức Chúa Trời đã chuẩn bị từ trước để chúng ta làm theo.” (Ê-phê-sô 2:10)
6. Cố gắng hết sức tất cả các công việc mình làm để tôn vinh Đức Chúa Trời. Bạn sẽ được nhận phần thưởng
“Khi làm bất cứ việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa chứ không phải làm cho người ta, vì biết rằng anh em sẽ nhận được cơ nghiệp từ Chúa làm phần thưởng. Anh em đang phục vụ Đấng Christ là Chúa.” (Cô-lô-se 3:23-24)
“Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh quang của Đức Chúa Trời.” (1 Cô-rinh-tô 10:31)
7. Hãy để tình yêu với Đức Chúa Trời và tình yêu với người khác là động lực trong mọi điều bạn làm, bao gồm cả công việc
“Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí mà kính mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi. Ấy là điều răn thứ nhất và quan trọng hơn hết. Còn điều răn thứ hai cũng giống như vậy:”Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình. Tất cả luật pháp và lời tiên tri đều tùy thuộc vào hai điều răn đó” (Ma-thi-ơ 22:37-40)
8. Tìm kiếm để trở nên khôn ngoan và sống hiệu quả, theo cách mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi bạn
“Hỡi kẻ lười biếng, hãy đến với loài kiến, xem xét cách nó sống để học khôn. Dù không có thủ lĩnh, quan chức hay người cai trị, nó vẫn biết dự trữ lương thực cho mình vào mùa hè, và thu gom thực phẩm trong mùa gặt.” (Châm ngôn 6:6-8)
9. Chiến đấu với sự lười biếng. Sự lười biếng chỉ khiến cuộc sống mọi người trở nên khó khăn hơn và nó vốn là một điều phá hại
“Kẻ thả trôi trong công việc mình, Cũng là anh em của kẻ phá hại.” (Châm ngôn 18:9)
10. Tìm kiếm sự hiểu biết sâu sắc hơn về ân điển của Chúa cho chúng ta trong Đấng Christ, bởi vì điều này giúp chúng ta sống hiệu quả
“Nhưng khi lòng khoan dung và nhân ái của Đức Chúa Trời, Cứu Chúa chúng ta, được bày tỏ thì Ngài cứu chúng ta, không phải bởi việc công chính chúng ta đã làm, nhưng bởi lòng thương xót của Ngài, qua việc thanh tẩy của sự tái sinh và đổi mới của Đức Thánh Linh, là Ngài đã tuôn đổ dồi dào trên chúng ta bởi Đức Chúa Jêsus Christ, Cứu Chúa chúng ta; để chúng ta nhờ ân điển Ngài mà được xưng công chính, trở nên người thừa kế niềm hi vọng về sự sống đời đời. Đây là lời chắc chắn. Ta muốn con nhấn mạnh những điều đó, để những ai đã tin Đức Chúa Trời sẽ chú tâm vào việc lành. Đó là điều tốt đẹp và ích lợi cho mọi người.” (Tít 3:4-8)
11. Tiếp tục đổi mới tâm trí sẽ giúp bạn đi theo ý muốn của Chúa trong những điều mà bạn nên làm
“Đừng khuôn rập theo đời nầy, nhưng phải được biến hóa bởi sự đổi mới của tâm trí mình, để phân biệt đâu là ý muốn tốt đẹp, vừa lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời.” (Rô-ma 12:2)
- Details
- Category: Thảo luận
- Hits: 3204
Ông già Nô-en không thể giải quyết nan đề tồi tệ nhất của chúng ta. Còn Chúa Giê-xu đã giải quyết vấn đề tệ nhất ấy rồi: chính là tội lỗi của chúng ta và sự xa cách Đức Chúa Trời. Ông già Nô-en có thể thêm lớp đường lên chiếc bánh của đời sống tốt, nhưng không thể nhận lấy một cuộc đời tan vỡ và xây dựng lại nó với hi vọng đời đời; và con cái chúng ta nên biết điều này về Giáng Sinh.
- Details
- Category: Thảo luận
- Hits: 2394
Thế hệ trẻ đầy nhiệt huyết luôn muốn thay đổi thế giới. Nhưng không may, họ thường bị ngăn trở bởi gánh nặng tài chính…
Lý do gì khiến thế hệ trẻ vướng vào nhiều vấn đề tài chính đến thế? Họ không được huấn luyện quản lý tài chính, học phí tăng vọt, các khoản vay… Kết hợp với nhiều yếu tố khác khiến nhiều bạn rơi vào cảnh nợ nần, không đạt được mục đích. Họ băn khoăn làm sao để tạo sự khác biệt, trong khi cứ mãi loay hoay trong thế giới túng hụt, nợ nần. Nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết Chúa chu cấp cho con cái Ngài, kèm theo những nguyên tắc giúp chúng ta quản lý tiền bạc.
1. Thay “Của tôi” bằng “Thuộc về Chúa”
Nhiều người trong chúng ta xem tiền bạc, của cải và tài năng là của riêng mình, và lấy chúng làm niềm vui, sự sở hữu và kiêu ngạo. Phục truyền 8:17-18 răn đe, nhắc nhở chúng ta rằng chính Chúa ban năng lực giúp chúng ta tạo nên cơ nghiệp. Thi thiên 24:1 cho biết trái đất và muôn vật thuộc về Đức Jehovah.
Nắm rõ Lẽ Thật giúp chúng ta nhìn nhận bản thân như những quản gia, thay vì là chủ cả. Một người quản gia sẽ hỏi: “Lạy Chúa, Ngài muốn con làm gì với những ân tứ Ngài ban cho con?”. Đối với nhiều người, sự chuyển hướng trong tâm trí này cách mạng hóa quyết định tài chính.
2. Thay “Bạn chỉ sống 1 lần!” bằng “Bạn sống tốt hơn với sự khôn ngoan”
“YOLO” – You only live once – Bạn chỉ sống 1 lần. Bạn từng đổ lỗi cho những hành động hấp tấp bằng câu nói phổ biến này? YOLO đứng sau hành vi tài chính ngu ngốc, một lời bào chữa để tiêu xài quá trớn. Thoải mái trong chốc lát, nhưng phung phí khiến chúng ta bị ràng buộc nhiều hơn trong tương lai.
Thuốc giải cho lối sống ‘YOLO’ là sự khôn ngoan từ lời Đức Chúa Trời. Kinh Thánh dạy 5 nguyên tắc quản lý tiền bạc cơ bản, giúp chúng ta an toàn về tài chính và thỏa vui lâu dài:
- Chi tiêu ít hơn khoản kiếm được.
- Hạn chế tối đa vay mượn (làm theo các nguyên tắc Kinh Thánh khi vay mượn).
- Ban cho rời rộng.
- Dành dụm cho trường hợp cấp bách.
- Đặt mục tiêu dài hạn.
Bước đi khôn ngoan sẽ mở ra cánh cửa đến với tự do tài chính trong cuộc sống.
3. Thay “Đừng khiến con phải làm gì” bằng “Con tin cậy kế hoạch của Ngài”
Chủ nghĩa vật chất và nợ nần bám rễ trong ham muốn kiểm soát vô độ: “Tôi muốn là phải có”. Khi bám víu vào tiền bạc và vật chất, chúng ta từ chối tin cậy rằng Chúa đang tể trị. Bước đi trong đức tin nơi Chúa dẫn chúng ta đến việc từ bỏ nhu cầu kiểm soát, giúp bản thân tự do tin cậy Chúa – Đấng đáp ứng nhu cầu chúng ta.
4. Thay “Tiền sẽ giải quyết vấn đề của tôi” bằng “Biết ơn những gì tôi có”
Nguyên tắc căn bản nhất trong việc quản lý tiền bạc là chi tiêu ít hơn kiếm được. Đa số chúng ta tập trung vào kiếm nhiều hơn thay vì chi tiêu ít đi. Vấn đề là nếu không thể chi tiêu ít hơn hôm nay, bạn vẫn sẽ chật vật cho dù ngày mai bạn có kiếm được nhiều hơn.
“Vấn đề không nằm ở số tiền kiếm được, nhưng đó chính là tấm lòng của chúng ta”. Hầu hết chúng ta chưa học cách thỏa lòng với cuộc sống hiện tại Chúa ban. Chúng ta cần học sống gói gọn trong mức thu nhập hôm nay bằng cách biết ơn về điều mình có. Bằng cách nuôi dưỡng sự thỏa lòng, chúng ta sẽ giải phóng tấm lòng khỏi cám dỗ nguy hiểm của việc sử dụng nợ để vun đắp lối sống của mình.
Bắt đầu ngay hôm nay
Khi thay đổi, bạn sẽ cất bỏ gánh nặng tài chính bằng kinh nghiệm về sự thỏa lòng và tự do.
Để thiết lập lại niềm tin của bạn về tài chính, hãy cam kết và tin cậy rằng tất cả những gì bạn có thuộc về Chúa. Ngài có kế hoạch cho bạn. Sau đó, hãy lướt qua những lời khuyên bên dưới và chọn điều bạn có thể bắt đầu thực hiện:
1. Bắt đầu dâng hiến cho Hội Thánh thường xuyên. Cam kết dâng hiến ít nhất 1/10 thu nhập. Thờ phượng Chúa với thu nhập của bạn là cách để nhận thức quyền làm chủ của Chúa và sự phụ thuộc của bạn.
2. Lập ngân sách, xem lại hằng tuần và tìm một người bạn để nhắc nhở bạn bám theo kế hoạch đó.
3. Lập riêng số tiền (chẳng hạn 5 triệu đồng) cho khoản “quỹ cấp bách” và lập trước danh sách những gì “cấp bách” đối với bạn.
4. Trả nợ với chiến lược trả từ các khoản ít nhất. Nếu bạn có thẻ tín dụng lãi suất cao, các khoản vay mua xe hơi hoặc nợ tiêu dùng khác, hãy bắt đầu giải quyết những khoản này trước.
5. Dành 3 – 6 tháng tiền chi tiêu trong một tài khoản riêng biệt.
6. Lập các mục tiêu tài chính 1 năm, 5 năm và 15 năm. Hãy xin Chúa bày tỏ mục tiêu nào Chúa dành cho bạn.
7. Bắt đầu tiết kiệm cho các mục tiêu của mình và tiền hưu. Cân nhắc biệt riêng 1/10 thu nhập vào khoản tiết kiệm hưu trí.
8. Hiểu biết sâu hơn những điều Kinh thánh dạy về tiền bạc.
Theo: thegospelcoalition/news.oneway.vn
- Details
- Category: Thảo luận
- Hits: 2893